Sau hai năm sống ở Vaasa, chúng tôi chuyển về gần thủ đô “cho tiện”. Chốt xong một cái là gói ghém đồ đạc, vài ngày sau đã gọn ghẽ trên xe tải cùng nhau lai kinh.
Nghe thì đơn giản vậy thôi, chứ tôi cũng nghĩ nát cả óc ra ấy. Ở Vaasa tôi có bạn bè, có công việc, cuộc sống dù không xông xênh nhưng cơ bản chẳng thiếu thứ gì; chuyển đi là phải chấp nhận thất nghiệp một thời gian, rồi còn cả mớ những thứ thay đổi khác. Chẳng qua là khi đặt tất cả lên bàn cân, đành chọn những thứ ưu tiên.
Thứ ưu tiên số một là bố mẹ tôi, hai người đã bắt đầu bước sang tuổi “cổ lai hy”. Phấp phỏng không nguôi từ ngày chúng tôi cất bước khỏi Việt Nam, bố mẹ tôi quyết đi Phần Lan bằng được, để “xem chúng nó sống thế nào”. Thế mà chuyến đi của hai ông bà trục trặc ngay từ khâu xin visa (một phần vì sự non kinh nghiệm của tôi), cho tới suốt những ngày ở châu Âu (vì ngân quỹ eo hẹp của chúng tôi) và đen đủi đến tận lúc hạ cánh trở lại Nội Bài. Mỗi lần nghĩ lại cảnh cả nhà lếch thếch kéo vali đi bộ giữa cánh đồng tối đen ở ngoại ô Leiden bên Hà Lan lúc nửa đêm, tôi tiếc nuối vô cùng. Cũng từ trải nghiệm ấy, tôi đặt quyết tâm sẽ đón bố mẹ tôi sang chơi mỗi mùa hè; mà để làm được việc đó thì tôi cần một công việc có thu nhập tốt hơn, căn nhà rộng hơn, một chiếc xe để có thể đưa ông bà đi đây đó… Và việc chuyển về gần Helsinki giúp tôi có cơ sở thực hiện được những mong muốn ấy.
Rồi tiếp đến là việc học của Bin. Dù đã xác định “học đến đâu thì đến đó, quan trọng là vui”, chúng tôi vẫn không thoát nổi tư tưởng của “Asians”; nhất là Bin thì lại càng sốt ruột khi thấy bạn bè ở Việt Nam của nó đã học hết lớp 10. Vaasa là cái xứ quái quỷ khác người, nhất quyết bắt bọn trẻ học lại từ lớp 7 dù đã xong lớp 8 ở Việt Nam và hoàn thành 1 năm học tiếng, thành ra Bin bị chậm tới 3 năm. Thấy đứa bạn người Trung Quốc chuyển đi thành phố lớn để được học đúng lớp, Bin cũng nhấp nha nhấp nhổm. Chuyển về gần Helsinki, tôi xin được cho Bin vào lớp 9, thoát được cảnh phải sang học trường (bổ túc) dành cho người lớn khi tròn 17 tuổi mà vẫn chưa hoàn thành cấp II.
Song dù đã xác định tư tưởng, tuần đầu ở Kirkkonummi, tôi vẫn không khỏi rơi vào trầm cảm. Đúng là chuyển từ rừng về núi, nơi cư trú mới của chúng tôi còn “quê” hơn cả Vaasa. Từ đó muốn đi vào Helsinki phải lái xe 30 phút, đi phương tiện công cộng thì một tiếng là nhanh nhất. Căn nhà nằm trên đồi, trong một khu dân cư chừng trăm hộ, nhưng có vẻ toàn dân bản địa nên họ chẳng mấy khi ló mặt ra ngoài; tôi thấy mình như lạc vào chốn bị-lãng-quên. Đang chạy như chó hoang với tụi bạn Việt Nam cùng xóm mỗi buổi chiều, giờ Be chẳng có ai chơi. Kỳ lạ một điều là dường như nhà nào ở đây cũng có trẻ con, nhưng chúng chỉ đóng cửa im ỉm trong nhà. Muốn đi siêu thị mua đồ thì phải đạp xe mất 3km, đường dốc mệt bở hơi tai. Từ nhà ra bến xe buýt cũng 500m, đúng bằng quãng đường Be đến trường ở Vaasa. Tuần đầu chưa làm được thẻ đi buýt tháng, tôi khóc ròng với việc đưa đón thằng bé hai chuyến mỗi ngày bằng xe đạp. Thấy khổ y như hồi mới chân ướt chân ráo sang Phần.

Bin thì dù quyết tâm với việc “học ở trường trong phố”, chỉ vài ngày đã vàng mắt với quãng đường đi lại. Đấy là tôi còn chọn cho nó trường gần nhà nhất, 17km, chứ nếu vào sâu nữa thì có khi kiếm cái gối ngủ trên xe buýt mỗi ngày luôn. Đến nơi được vài ngày, Bin đạp xe vào “trung tâm” chỉ để thở hắt ra: chỗ này còn chẳng có trung tâm mẹ ạ. Vỏn vẹn một quãng được coi là phố, với tòa nhà trung tâm hành chính, mấy quán ăn, phòng gym, siêu thị, còn nhà thờ, thư viện, bệnh viện, trường học thì lác đác xa dần. Tôi liên lạc với đứa bạn trước học cùng ở VAMK, thấy bảo cũng sống ở Kirkkonummi thì mừng huýnh; ai ngờ mở map soi thì thấy cách nhau đến 30km. Hóa ra Kirkkonummi trải rộng như một vành khăn bao lấy Helsinki và Espoo, mỗi khu dân cư cách nhau cả mấy cánh rừng. Muốn xem phim á, lái xe vào Espoo. Muốn ăn KFC á, lái xe vào Espoo. Muốn mua đồ châu Á á, lái xe vào Espoo.
Thế là tôi lại bắt đầu nhìn quanh để thấy “cỏ nhà hàng xóm xanh hơn”, kiểu: nếu mình ở khu chung cư ngay cạnh trường Be có phải tốt hơn không, từ đó đi ra siêu thị cũng chỉ có vài trăm mét. Rồi tôi lại bắt đầu so sánh với Vaasa và tiếc nuối: ngày trước mình cứ chê Vaasa “nhà quê”, giờ mới thấy ở đó tiện lợi hơn gấp vạn lần. Nào là ở Vaasa chỉ cần đi bộ là ra tới “chợ”, nào là nhà cách trung tâm có hơn cây số (mà là trung tâm thật, chứ không phải kiểu trung tâm thị trấn huếch hoác như ở chỗ này), riêng đồ châu Á cũng có tới 3 siêu thị, lại còn cửa hàng đồ cũ thì ngày nào cũng có thể ghé qua ngắm nghía tha hồ. Nếu như ngày trước tôi than “muốn ăn đậu cũng phải chờ cuối tuần ở Narpes mang lên”, thì giờ ở đây chẳng đào đâu ra người mang rau đậu vào tận cửa như hồi đó. Không chỉ một lần tôi có ý nghĩ “bỏ cuộc”, hay là…
Giây phút tôi bừng tỉnh đến vào buổi chiều đi hái việt quất với anh bạn cùng nhà. Hóa ra vì bận than phiền mà tôi “quên” mất mình có cả một kho báu lớn ngay bên cạnh – chỉ đi bộ chừng 5 phút là đã tới rừng. Tôi sực nhớ ra khi còn ở Vaasa và đạp xe qua cung Asevelikylä, tôi đã ao ước mình có thể sống ở một nơi mà bước chân ra là chạm vào rừng như thế. Tôi nhớ lại mình đã từng sung sướng đến đâu khi được vào Ojen, với ý nghĩ “giá như ngày nào mình cũng có thể tới đây”. Nơi tôi ở bây giờ, thậm chí không cần đi tới 5 phút mà chỉ cần ra sân sau, xuống dốc thôi là đã đứng giữa những cây những cỏ. Nếu như buổi chiều đi hái việt quất hôm đó, tôi thắc mắc “vì sao mấy nhà sống ngay cạnh đây không hái nhỉ”, thì sáng hôm sau đi xuống triền đồi từ cửa hậu nhà mình, tôi đã thấy cả một vạt cây chi chít quả. Chà, vì cứ mải nhìn đi tận đâu đâu, tôi không thể nhận ra những thứ mình đang có dù chúng ở rất gần.

Rồi tôi dọn hết cỏ dại ở sân sau, trồng mấy cây cà chua và ngải cứu tình cờ “lượm” được ven đường. Rồi tôi tìm vào Espoo mua đỗ xanh làm giá, vài ngày sau thì còn nghiên cứu làm được cả đậu phụ thủ công dù trước đó vẫn tự nhủ rằng phải có máy mới mong làm nổi. Việt quất hái về, tôi làm nước ép, làm mứt trộn với sữa chua ăn dần. Cuối tuần ra biển chơi, chúng tôi nhặt về cơ man nào là đá cuội, rồi ngồi vẽ vẽ bôi bôi, lập tức có cả một bộ sưu tập trông thích mắt. Tôi với Be còn đi nhặt cành cây về làm cả một cái lều (dù trông nó giống cái chuồng) ở sân sau, nói đùa rằng hôm nào đi bắt nai về nhốt. Nai thì chưa thấy, nhưng thỉnh thoảng có con thỏ lơ ngơ lạc vào tận giữa sân, ngơ ngác nhìn rồi hốt hoảng chạy đi khi thấy bóng người.
Một lần đi dã ngoại ngang qua đường rừng, rừng thật chứ không phải kiểu rừng đồi mà tôi đang ở nhé, tôi buột miệng thắc mắc khi nhìn thấy một ngôi nhà nằm chơ vơ riêng một góc trời: không hiểu sao người ta lại sống được ở nơi này nhỉ? Anh bạn cười, bảo có gì mà không sống được; đương nhiên cách sống của họ rất khác với chúng ta. Đúng thật, họ không cần chạy theo những thứ ánh sáng văn minh, không bị trói buộc bởi công nghệ hay đeo mặt nạ vì những cuộc xã giao sớm tối. Chủ nhân của ngôi nhà ấy chắc chắn sống một cuộc sống nhẹ tênh, bởi họ thậm chí chẳng có nhà hàng xóm để nhìn xem liệu cỏ bên đó có xanh hơn.
2 Comments
Rất là thích đọc Thế giới của T, em lại chờ lên bài mới nhé chị <3
Chúc mừng ba mẹ con Tr đã di cư an toàn với cuộc sống có vẻ hoang dã hơn, “tự cung tự cấp” hơn và chắc là đang tập yêu vùng đất mới, cuộc sống mới nơi đây khi thiên nhiên, “làng xóm” xung quanh đang chờ được khám phá hàng ngày. Thích bức tranh cô gái và chim bồ câu lắm- thật hoà quyện với thiên nhiên. Đón chờ những bài viết sống động của Tr nhé.